HUONG XUA

HUONG XUA

Qua Cuộc Thảm Sát Mậu Thân 1968

Qua Cuộc Thảm Sát Mậu Thân 1968 Vạch Trần Bộ Mặt Của Đảng CSVN Với Nghệ Thuật Bịp Bợm

1) Đảng CSVN và Nghệ thuật dối trá .(* CTV)

 

Trần Trường Sa (Danlambao) - Xin quý vị đừng lầm là tôi muốn nói đến cái nghệ thuật của sự dối trá. Ở đây tôi muốn nói đến một bộ môn nghệ thuật làm việc dối trá, chẳng có chút nghệ thuật nào cả. 

Số là hôm nay xem bài “Giải mã” Mậu Thân 1968 trên báo Thanh Niên, giới thiệu bộ phim tài liệu Mậu Thân 1968. Dĩ nhiên là tôi chả thèm xem bộ phim này, nhưng tôi tin báo Thanh Niên giới thiệu không sai. Trong bài có đoạn: Câu chuyện của những nhân chứng có thẩm quyền đã làm sáng rõ: cái gọi là cuộc thảm sát đẫm máu” chỉ là đòn tâm lý chiến mà Mỹ dựng lên, thực tế là Huế đã bị bom Mỹ phá hủy làm nhiều thường dân chết cùng với quân giải phóng và lính Mỹ. Và... Những dẫn chứng lịch sử cho thấy thông tin bị làm méo mó. Vào thời điểm đó, một số hãng thông tấn nước ngoài và các nhà báo độc lập đã tìm hiểu và xác định không tìm thấy hố chôn người tập thể như phía Việt Nam Cộng hòa đưa ra.
Ở đây tôi chỉ xin nêu một số bằng chứng tượng trưng. 

Ai đánh sập Cầu Trường Tiền? – 11 cô gái Sông Hương. 

Ai chôn người trong những mồ chôn tập thể tại Bãi Dâu, sau chùa Tăng Quang, trong trường Gia Hội, gần Chợ Thông, cạnh chùa Tường Vân? – Quân giải phóng. 

Ai bắn chết ông Trần Đình Thương, phó tỉnh trưởng dân sự tỉnh Thừa Thiên ngay sáng mồng 2 Tết? – Bộ đội. 

Ai giết người hàng loạt ở Phú Thứ, khe Đá Mài? – Việt Cộng. 


  Sao Việt Cộng Ác Thế Hả Ông Trời  o'i ? 

Ai chưa tin, hãy tìm nghe bản nhạc “Hát trên những xác người” của Trịnh Công Sơn thì rõ: 

Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người 
Tôi đã thấy, tôi đã thấy, 
Trên con đường, người cha già ôm con lạnh giá 
Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người 
Tôi đã thấy, tôi đã thấy, 
Những hố hầm đã chôn vùi thân xác anh em. 
Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh 
Chị vỗ tay hoan hô hòa bình 
Người vỗ tay cho thêm thù hận 
Người vỗ tay xa dần ăn năn. 

Còn đây là những lời nói ra từ miệng ông Hoàng Phủ Ngọc Tường khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Thụy Khê

TK: Nhìn từ phía những dữ kiện lịch sử mà anh nắm bắt được, diễn biến Mậu Thân đã xảy ra trong một trình tự như thế nào? 

HPNT: Huế Mậu Thân xảy ra cách đây gần 30 năm. Sách vở, tài liệu đã được công bố từ nhiều phía của cuộc chiến khá đầy đủ, có thể làm cơ sở cho những phân tích khoa học để giải phẫu một cuộc chiến mà thật ra, không thể đơn giản tách riêng ra trong biến cố Mậu Thân. Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bày ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng. Nhưng tôi cũng tin rằng đây là một sai lầm có tánh cách cục bộ, từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế, chứ không phải là một chánh sách toàn cục của cách mạng. Bởi vì tình trạng giết chóc bừa bãi như vậy, đã không xảy ra ở những địa phương khác trong Mậu Thân, ngay cả trên một địa bàn rộng lớn với tình trạng xen kẽ giữa những lực lượng đối địch rất phức tạp như ở Sài Gòn thời ấy. 

TK: Vậy theo anh ai trách nhiệm về những thảm sát ở Huế? 

HPNT: Tôi không đủ thẩm quyền để phán xét bất cứ một cá nhân nào. Xin trích dẫn theo trí nhớ một ý tưởng trong hồi ký của chính ông Lê Minh, Tư lệnh chiến trường Huế Mậu Thân.‘Dù bởi lý do nào đi nữa thì trách nhiệm vẫn thuộc về những người lãnh đạo mặt trận Mậu Thân, trước hết là trách nhiệm của tôi’. Qua bài hồi ký tâm huyết này, đã được công bố trên tạp chí Sông Hương, Huế và sau đó nếu tôi không nhớ lầm, đã được dịch và in toàn bộ trên báo Newsweek, tác giả Lê Minh, (lúc đó đã nghỉ hưu) còn nhắc nhở rằng điều quan trọng có thể làm, và phải làm bây giờ, là những người lãnh đạo kế nhiệm ở Huế, phải thi hành chánh sách minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu Thân, trả lại công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của họ. 

Nếu muốn hỏi, hảy hỏi những người dân sống tại Phú Hậu, Phú Thọ, Phú Cát, Hương Long, Thủy Xuân trong giai đoạn 1968 – 1975 về việc khai quật những mồ chôn tập thể sau Mậu Thân; hãy hỏi những học sinh Gia Hội giai đoạn 1970-1975 (trong số này có ông Ngô Hòa hiện là Phó chủ tịch tỉnh Thừa Thiên – Huế) đã phải nghỉ học mấy ngày để chờ khai quật xong những hố chôn người tại trường Gia Hội. Trong số những thi thể tìm thấy đợt này có thi thể ông Lộ, chưởng môn Thất Sơn thần quyền tại Huế. 

Muốn làm phóng sự, hãy đến Huế tìm những gia đình có đám giỗ ngày mồng 1 Tết để phỏng vấn. Đó là đám giỗ những người bị xử ngay ngày mồng 2 Tết, khi Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng Hòa chưa có một động thái nào phản công. 

Muốn tìm hiểu về nguyên nhân cái chết của những người dân vô tội trong dịp Tết Mậu Thân thì xin nán lại để hỏi những gia đình có đám giỗ đến rằm tháng giêng. 

Không lẽ báo Thanh Niên muốn chơi chữ hay sao khi viết: Câu chuyện của những nhân chứng có thẩm quyền đã làm sáng rõ:... Và hai chữ “Giải mã” đặt trong ngoặc kép! 

Còn những nhân chứng nhân dân không có thẩm quyền thì sao? 

Không lẽ tác giả bộ phim Mậu Thân 1968 muốn đối chọi lại với tác phẩm Bên Thắng Cuộccủa Huy Đức khi giới thiệu đã bỏ 10 năm tìm kiếm, gặp gỡ, phỏng vấn... để làm bộ phim này. Hay tác giả chỉ muốn có cơ sở để làm giá với VTV! 

Tôi nghĩ, người dân Huế đã quên đi quá khứ đau buồn của biến cố Mậu Thân. Dân Huế vốn sùng đạo Phật, có lẽ ít ai còn mang lòng căm thù về sự kiện đau buồn này, kể cả những người từng mang bốn chữ “cha chết Mậu Thân” trong lý lịch sau 1975. Những em này không thể thi vào đại học giai đoạn 1975-1985. Đem sự dối trá để khơi gợi lại lòng hận thù để làm gì? Hay đây là âm mưu chia rẽ dân tộc của ngoại bang? 

Dối trá trắng trợn, dối trá không có chút nghệ thuật nào chỉ tổ phơi bày bộ mặt xấu xa của kẻ phá hoại. 

Cuối cùng xin nhắc nhở tác giả bộ phim và những kẻ tiếp tay cho sự dối trá này là: Đất Thừa Thiên linh thiêng có thừa. Đừng đùa giỡn trên linh hồn của hàng ngàn người dân vô tội. Điều chỉ có thể làm là lập đàn chẩn tế, giải oan cho họ; cầu cho vong linh của họ siêu thoát, dân mới an được. Muốn biết, hãy đến gia đình con cái TTM mà hỏi (TTM là tên viết tắt vì tôi không muốn nhắc đến tên một kẻ đã gây nên tội ác dù hắn ta đã chết).













26/1/2013 


*

"Giải mã" Mậu Thân 1968

Minh Ngọ (Thanhnien) - Mậu thân 1968 là bộ phim tài liệu đầu tiên của Việt Nam đề cập trực diện và đi sâu vào sự kiện lịch sử vốn gây nhiều tranh cãi và từng bị cho là nhạy cảm.

Trong hành trình làm rõ sự thật lịch sử về cuộc tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân 1968, đạo diễn Lê Phong Lan đã phỏng vấn và đối chất với hàng trăm nhân chứng, trò chuyện với những chuyên gia lịch sử, các nhà báo trong nước và quốc tế.

Hình ảnh trong bộ phim Mậu Thân 1968, ảnh do VTV cung cấp 

Những sự thật trong sự kiện Mậu Thân 1968 là lý do thôi thúc đạo diễn Lê Phong Lan thực hiện bộ phim, nhất là sau khi chị được trò chuyện với thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn trong thời gian làm phim về ông. "Suốt một thời gian dài, đã có những thông tin sai về sự kiện Mậu Thân 1968. Trong khi chúng ta lại không hề lên tiếng". Và bà đã bị thôi thúc đi tìm câu trả lời từ phía những người đã từng đứng phía bên kia chiến tuyến. Bà đã sang Mỹ nhiều lần, lặn lội khắp mọi nơi tìm nhân chứng, tư liệu. Rất nhiều người trong cuộc mà bà phỏng vấn nay đã ra đi, nhưng may mắn là sự thật lịch sử được ghi lại từ họ. Bộ phim Mậu Thân 1968 sẽ không tránh né những quan điểm thẳng thắn, những góc nhìn khác nhau của các nhà nghiên cứu lịch sử, những người trong cuộc về những điều được và mất của cách mạng Việt Nam trong sự kiện Mậu Thân 1968.

Nhiều câu chuyện lịch sử ít người biết được lật lại. Một trong số đó là sự kiện 26 ngày đêm tại Huế từng bị cho là "cuộc thảm sát đẫm máu” được mô tả trong cuốn sách Dải khăn sô cho Huế của nhà văn chế độ cũ - Nhã Ca. Những người làm phim đã phỏng vấn ông Lê Khả Phiêu - người chỉ huy một trung đội trong sự kiện Mậu Thân 1968 tại Huế, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, nhà báo Mỹ Stanley Karnow, cựu phóng viên tờ Washington Post Don Lux, GS sử học Larry Berman, và cả những người lính từ hai phía. Những dẫn chứng lịch sử cho thấy thông tin bị làm méo mó. Vào thời điểm đó, một số hãng thông tấn nước ngoài và các nhà báo độc lập đã tìm hiểu và xác định không tìm thấy hố chôn người tập thể như phía Việt Nam Cộng hòa đưa ra. Câu chuyện của những nhân chứng có thẩm quyền đã làm sáng rõ: cái gọi là "cuộc thảm sát đẫm máu” chỉ là đòn tâm lý chiến mà Mỹ dựng lên, thực tế Huế đã bị bom Mỹ phá hủy làm nhiều thường dân chết cùng với quân giải phóng và lính Mỹ.

Trước khi Ðài truyền hình Việt Nam mua bản quyền phát sóng, đạo diễn đã bỏ tiền túi để làm phim. Bà nói: "Tôi làm bộ phim một cách công bằng, khách quan trước hết vì danh dự nghề nghiệp của tôi, thứ hai là với góc nhìn của người Việt Nam và dân tộc Việt Nam”.


Bộ phim tài liệu Mậu Thân 1968 (dài 12 tập) do Đài truyền hình Việt Nam phối hợp với Hãng phim truyền hình Bản sắc Việt sản xuất, phát sóng vào lúc 20 giờ trên kênh VTV1 bắt đầu từ ngày 25.1.

 
                                  --------------------(+)--------------------

2) Xuân về hãy nhớ đến những oan hồn trên xứ Huế

 

Thương nhớ đến 7,600 đồng bào Huế đã bị cộng sản Việt Nam sát hại 
Douglas Pike (“Viet Cong Strategy of Terror”) - Ngô Xuân Hùng chuyển ngữ - Ở Hòa Đàm Paris, Cộng Sản Việt Nam đã công bố việc thảm sát này không phải do bàn tay của đảng Cộng Sản, mà chính là hành động của những cán bộ ở Huế bất mãn với chế độ. Tưởng cũng nên nhắc lại: vào ngày 26 tháng Tư năm 1968, Đài Giải Phóng Hà Nội đã chê trách việc chính phủ VNCH cố tìm xác của các nạn nhân, đài đã phát thanh rằng những người bị giết hại chỉ là “những tên tay sai đã nhúng tay vào máu của nhân dân yêu nước ở Huế và họ đã bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa giết hại vào tháng Ba tháng Tư.”

Những lời tuyên truyền này sau đó đã được thay thế bởi một lý do khác là “thảm sát ở Huế chỉ là những vụ thanh toán tranh chấp giữa các đảng phái ở Huế mà thôi.” 

Dấu binh lửa nước non còn đó

Huế là một thành phố thảm thương nhất trên thế giới, không phải chỉ vì một thảm cảnh đã xảy ra ở đó vào tháng Hai năm 1968, cho dù sự giết hại đó có đi vượt sức tưởng tượng của con người! Mà Huế còn là một chứng tích không thể chối cãi được cho tất cả chúng ta, người dân Việt với bốn ngàn năm văn hiến, qua bao năm đã không để ý đến những thay đổi trong xã hội làm cho con người bị mê muội và đắm chìm trong lỗi lầm mới của thế kỷ thứ hai mươi, quên mất đi đạo làm người. 

Những thảm họa xảy ra ở Huế làm cho tất cả mọi người chúng ta phải bồi hồi suy tư! Thảm nạn Huế phải được tạc vào bia đá, khắc vào tâm khảm, để đời sau sẽ không quên, cùng chung với những dữ kiện lịch sử khác, của những cuộc tàn sát bạo tàn giữa con người với nhau. Huế là một dẫn chứng điển hình cho sự mù quáng của loài người khi họ đi theo chủ nghĩa vô sản vô thần của cộng sản. 

Chuyện gì đã đến với Huế có thể được tóm tắt lại qua vài con số thống kê như sau: Phía cộng sản gồm có 12,000 lính chính quy Bắc Việt (BV) bắt đầu tấn công thành phố Huế đêm ba mươi Tết, nhằm ngày Ba Mươi Tháng Một dương lịch, 1968. Đoàn cộng quân đã tấn công và chiếm giữ Huế trong suốt 26 ngày, sau đó bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) và đồng minh đánh bật ra khỏi Huế. Sau một tháng, 5,800 thường dân Huế bị giết hại hoặc mất tích. 

Đây là những thống kê quan trọng để giải đáp những thắc mắc chúng ta có về Huế, vì những dữ kiện này đã ghi vào lịch sử, cho dù báo chí trên thế giới chỉ ghi nhận rất sơ sài các thống kê đó. Dù con số có lên cao đến bao nhiêu đi nữa, lương tâm của nhân loại vẫn không bị ảnh hưởng gì cho lắm! Đã không có những cuộc biểu tình trước các tòa Đại Sứ Việt Cộng ở các quốc gia khác. Nói một cách mỉa mai hơn, thế giới bên ngoài đã không biết chuyện gì đã xảy ra ở Huế, hoặc nếu biết, họ cũng chẳng bận tâm đến làm gì. 

TRẬN CHIẾN 

Trận tấn công thành phố Huế là một phần quan trọng trong chiến dịch tổng tấn công Đông Xuân năm 1967-1968 của cộng sản Việt Nam. Chiến dịch được chia làm ba giai đoạn chính như sau: 

Giai đoạn 1 – Bắt đầu từ tháng 12 năm 1967 với những cuộc “tấn công chọn lọc” nhắm vào các căn cứ và yếu điểm quan trọng của QLVNCH và đồng minh bằng những sư đoàn chính quy Bắc Việt. Các trận đánh ở Lộc Ninh tỉnh Bình Long, Dak To ở Kontum, và Cồn Tiên ở tỉnh Quảng Trị, cả ba trận xảy ra trong các vùng đầy núi đồi Việt Nam gần biên giới Cam Bốt và Lào, đều là những trận đánh then chốt thuộc Giai đoạn 1 của chiến dịch Đông Xuân. 

Giai đoạn 2 – Xảy ra trong tháng Giêng, tháng Hai, và tháng Ba năm 1968, nằm trong “chiến thuật tổng tấn công”, với nhiều trận đánh dùng những đơn vị nhỏ lưu động cùng tấn công một lúc tại nhiều nơi. Giai đoạn 2 bao gồm một diện tích lớn và dùng chiến thuật du kích. Trong khi những cuộc tấn công trong giai đoạn trước, VC dùng những sư đoàn chính quy BV. Trong giai đoạn này, đa số các cuộc tấn công đều dùng những nhóm du kích địa phương của Mật Trận Giải Phóng Miền Nam. Cao điểm của giai đoạn 2 xảy ra khi 70,000 Việt Cộng tấn công vào 32 thành phố vào ngày Mồng Một Tết, năm 1968. 

Giai đoạn 3 – Diễn ra trong tháng Tư, tháng Năm, và tháng Sáu năm 1968, với toàn bộ lực lượng gồm các sư đoàn chính quy BV và các lực lượng du kích MTGPMN, tập trung vào một trận đánh lớn. Những tài liệu tịch thu được từ mặt trận đã có nói về chiến thuật “đợt sóng thứ Hai” này. Có thể là Khe Sanh, một căn cứ của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ nằm gần Vĩ Tuyến 17 (để yểm trợ và cũng là căn cứ xuất quân của các toán Biệt Kích Nha Kỹ Thuật). Hoặc có thể là Cố Đô Huế. “Đợt sóng thứ Hai” đã không xảy ra vì các chiến dịch trước đó (Giai đoạn 1 và Giai đoạn 2) đã không đạt được kết quả mong muốn. Tuy nhiên, từ khi thành phố Huế bị chiếm, và sau cuộc đánh để giải tỏa căn cứ Khe Sanh mùa Hè 1968, cuộc chiến đã đi đến điểm cao độ kể từ đó. 

Về phía đồng minh Hoa Kỳ, trong ba tháng này, trung bình khoảng 500 binh sĩ tử thương hàng tuần, QLVNCH (ARVN) hơn gấp đôi con số này - gần 1,000 nhân mạng. Và bên Việt Cộng, con số tử thương lên đến tám lần của phía Hoa Kỳ - trên 4,000 “sinh Bắc tử Nam”! Trong chiến dịch Đông Xuân, Việt Cộng bắt đầu với khoảng 195,000 quân chính quy và du kích, sau 9 tháng tổng tấn công, cộng sản Bắc Việt đã mất đi 85,000 quân, tử thương hoặc bị tàn phế. 

Chiến dịch Đông Xuân được hoạch định và mở ra nhằm mục đích bẻ gãy sức mạnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và để đẩy lùi các bộ phận của chính phủ VNCH, gồm các cơ quan hành chính, và đồng minh phải rút vào thành phố để phòng thủ. Đúng ra, cuộc tấn công thành phố Huế thuộc vào Giai đoạn 1 của chiến dịch Đông Xuân hơn là Giai đoạn 2 vì Việt Cộng sử dụng các sư đoàn Bắc Việt, sư đoàn 5 324-B cộng vơi các trung đoàn chính quy và thành phần du kích với khoảng 150 cán bộ cộng sản nằm vùng. 

Tóm lượt lại, trận đánh ở Huế gồm có ba giai đoạn chính: 

HUẾ: GIAI ĐOẠN MỘT 

Phần tấn công khởi đầu của sư đoàn chính quy BV với Trung Đoàn 800 và Trung Đoàn 802, đủ hỏa và nhân lực để tràn ngập vào thành phố Huế. Đến sáng ngày hôm sau, Việt Cộng đã chiếm được đa số các cơ sở trong thành phố Huế, ngoại trừ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH và các căn cứ của đồng minh. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ tiếp viện thêm quân để yểm trợ cho hai tuyến phòng thủ quan trọng trong thành phố Huế. Việt cộng gia tăng thêm Trung Đoàn 804 để cắt đứt đường yểm trợ này. Tuy nhiên QLVNCH tấn công quá mạnh nên đã chọc thủng vòng đai bao vây của VC và sau đó, hai căn cứ quân sự của QLVNCH và Hoa Kỳ đó không còn bị đe dọa trầm trọng nữa. 

Kể từ đó, chiến trường trở thành cuộc bao vây và phòng thủ giữa hai phía. Việt Cộng tấn chiếm và cố thủ ở phía Tây Thành Nội Huế. QLVNCH và Đồng Minh tái chiếm và phòng thủ ba hướng còn lại của Thành Nội và các làng dọc theo sông Hương, với quyết tâm đánh đuổi VC ra khỏi Thành Nội bằng pháo binh và dùng máy bay dội bom. Nhưng Thành Nội được xây rất kiên cố, và trong những ngày kế tiếp, QLVNCH thấy rõ là VC đã nhận chỉ thị phải tử thủ ở Thành Nội, bất cứ với giá nào cũng không được triệt thoái. QLVNCH chỉ còn một cách duy nhất là lấy lại thành phố bằng từng con đường, từng khu phố, một cách chiến đấu rất khó khăn, gian khổ và hao tổn nhân mạng. 

Qua tuần thứ Ba của tháng Hai, vòng đai bao vây Thành Nội đã được củng cố, và Thủy Quân Lục Chiến QLVNCH cùng Đồng Minh bắt đầu siết chặt lại và khởi sự tái chiếm từng thước đất trong Thành Nội. Sáng ngày 24 tháng Hai, Sư Đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH giật lá cờ VC đã treo 24 ngày xuống và cờ VNCH một lần nữa ngạo nghễ tung bay trên thành phố Huế. Trận tái chiếm Cổ Thành tuy đã thành công, nhưng rải rác trong thành phố vẫn còn những cuộc đụng độ nhỏ giữa VC trên đường rút lui với QLVNCH truy đuổi. 

KẺ HÀNH HƯƠNG QUA ĐẤY CHẠNH THƯƠNG 

TÌM THÂY 

Giữa những hỗn loạn còn nghi ngút khói sau cuộc chiến, việc cấp cứu đầu tiên cho đồng bào Huế là cứu đói, ngăn ngừa bệnh dịch, và trị liệu cấp thời cho các nạn nhân. Tiếp đó là xây dựng lại những nhà thương, trường học, nhà cửa bị hư hại vì súng và bom đạn. Sau đó mới đến việc kiểm điểm những người bị mất tích hoặc đã thiệt mạng. Sau một tháng, vẫn chưa có một thống kê nào chính thức. Tuy nhiên, Tòa Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên kiểm kê được gần 1,900 người đang được điều trị trong các nhà thương và ước lượng khoảng 5,800 người vẫn còn bị mất tích. 

Nhóm mộ thứ nhất: những nạn nhân của cộng sản được tìm thấy ở trong sân trường ở Gia Hội, ngày 26 tháng Hai. Tổng số xác chết của nạn nhân bị chôn ở trường học Gia Hội tìm thấy lên đến 170 người. 

Trong những tháng kế tiếp, lần lượt từng mồ chôn được khám phá thêm, gồm có 18 ngôi mộ tập thể, nơi chôn nhiều nhất là chùa Quảng Tự (67 nạn nhân), Bải Dâu (77), Chợ Thông (ước lượng khoảng 100), Thiên Hàm (khoảng 200), và Đông Gia (khoảng 100). Tổng cộng trên 1,200 xác được tìm thấy từ những ngôi mồ tập thể chôn gấp rút, đã không dấu kỹ. 

Hơn một nửa trong số những nạn nhân vẫn còn để lai những dấu hiệu của cái chết thảm khốc: hai tay trói chặc sau lưng, khăn nhét đầy vào cuống họng, nằm cong queo với không thương tích trên người. Đó là dấu hiệu họ đã bị chôn sống. 600 nạn nhân còn lại có những vết thương, nhưng nhà giảo nghiệm không thể nói được là họ đã bị xử bắn hay bị chết vì lạc đạn. 

Những ngôi mộ tập thể thuộc nhóm thứ nhì được tìm thấy trong bảy tháng đầu tiên của năm 1969 ở quận Phú Thứ (Gò Cát – Sand Dune), Lệ Xá Tây, quận Hương Thủy – huyện Xuân Hòa, Vân Đường vào cuối tháng Ba và tháng Tư. Nhiều ngôi mộ khác cũng đã được tìm thấy tại làng Vĩnh Lộc trong tháng Năm và ở quận Nam Hòa trong tháng bảy. Những ngôi mộ lớn nhất tìm thấy trong đợt hai nằm ở Gò Cát tại ba địa điểm Vĩnh Lưu, Lê Xã Đông và Xuân Lộ, nằm giấu trong những gò cát nhấp nhô với cỏ mọc cao gần bãi biển. Ngăn chia bởi những cồn muối, xa với làng xóm, những gò cát này là địa điểm lý tưởng để chôn dấu. Trên 800 xác đã được tìm thấy ở đây. 

(Ghi chú thêm của Ngô Xuân Hùng: trong số những nạn nhân này có hai vị Linh Mục – Cha Bửu Đồng và Cha Michael Bang, cùng với hai Sư Huynh Dòng Lasan). 

Ở Gò Cát, tất cả các nạn nhân đều bị trói gô lại thành từng nhóm khoảng 10 đến 20 người, xếp hàng đứng trước các rãnh mới được đào bởi chính các nạn nhân, và bị xử bắn bằng súng đại liên. Một trong những di vật quý của dân làng gò cát Phú Thứ là vỏ đạn đại liên của Nga Sô tìm thấy được trong những ngôi mộ này. Thường thì những nạn nhân ở đây bị chôn chung một mộ, chôn đến ba hay bốn lớp, nên nhận diện các nạn nhân rất khó khăn. 

Nhóm mộ thứ ba tìm thấy ở suối Đá Mài (Da Mai Creek find), cũng được gọi là Phủ Cam tử lộ, tìm ra ngày 19 tháng 9, năm 1969. Ba VC hồi chánh viên đã báo cho toán quân báo của Tiểu Đoàn 101 Nhảy Dù rằng, họ đã chứng kiến cuộc thảm sát của vài trăm nạn nhân tại Đá Mài vào tháng Hai năm 1968, cách Huế khoảng mười dặm. Vùng suối Đá Mài rất hoang dã, không người ở, và gần như không có lối ra vào bằng đường bộ. 

Sau khi gom lại những bằng chứng, các giảm nghiệm viên đã phân tách diễn biến xảy ra tại Đá Mài như sau: 

Ngày Mồng Năm Tết ở làng Phủ Cam, nơi gần ba phần tư của 40 ngàn người Công Giáo Huế cư ngụ, một số rất đông ngươi đã tránh nạn trong Thánh Đường Phủ Cam, một cách tránh nạn rất thông thường ở Việt Nam. Trong số này, cũng có một số người không phải là Công Giáo. Một cán bộ chính trị cộng sản đến nhà thờ và đã ra lệnh cho 400 người, bằng cách gọi tên hoặc nhận diện qua cách ăn mặc (giàu có hoặc nhìn như thương gia). Tên cán bộ nói họ sẽ được đi đến “vùng giải phóng” trong ba ngày mà thôi để được cải tạo, sau đó họ sẽ được thả về. 

Những người này đi bộ chín cây số về hướng Nam đến một ngôi chùa nơi cộng sản đã dựng sẵn một bộ chỉ huy hành quân. Hai mươi người bị kêu ra khỏi nhóm, đứng sắp hàng một, lần lượt bị truy tố vì những tội đã hợp tác với chính phủ VNCH, sau đó bị bắn rồi bị chôn trong sân chùa. Những người còn lại bị buộc phải lội băng qua phía bên kia sông, và được giao lại cho một đại đội du kích, với biên bản và danh sách của những người bị bắt. Có thể là tên cán bộ chính trị có ý là những người bị bắt này sẽ “được” cải tạo rồi sẽ thả cho họ về, nhưng sau khi bàn giao, số phần của những nạn nhân này đã ra khỏi tầm tay của tên cán bộ chính trị. 

Những ngày kế tiếp, bao nhiêu ngày không ai biết, những người bị bắt và người quản thúc họ đi lang thang lẩn trốn cuộc truy lùng của QLVNCH qua những làng nhỏ. Cuối cùng, cán bộ du kích cao cấp quyết định thủ tiêu nhân chứng: Họ bị dắt đi sáu cây số qua những đường núi khó đi và hẻo lánh nhất, đến suối Đá Mài. Tất cả đều bị bắn hoặc bị đập vỡ sọ, xác họ để nằm phơi trên suối nước. Tiểu Đoàn 101 Nhảy Dù QLVNCH ghi nhận rằng nơi hành quyết không thể vào được bằng xe vì đường đi không có hoặc không thể đi lọt được, chỉ vào được bằng đường bộ. Cây cối nơi này mọc rất cao, lá dầy và mọc theo lối “hai tầng”, tầng một gồm những bụi tre và cây thấp gần đất, tầng hai gồm những cây cổ thụ mọc rất cao, những nhánh lớn xòe ra như lọng dù che khuất đi những gì ở dưới. Bên dưới hai tầng lá này, ánh sánh mặt trời không chiếu sáng được. Công binh QLVNCH đã bỏ hai ngày để dùng mìn phá ngã các cây cổ thụ và tạo ra một khoảng trống lớn đủ cho máy bay trực thăng đáp xuống để đem các di hài nạn nhân về Huế. Suối Đá Mài thật đúng là nơi để hạ sát mà không cần phải chôn giấu xác nạn nhân. 

Ở suối Đá Mài, cách bờ khoảng một trăm thước, người ta tìm thấy hàng trăm chiếc sọ người, hàng trăm mẫu xương vụn nằm chung lại một chỗ. Những xác này đã không được chôn, nằm lộ liễu (theo truyền thuyết VN, người chết nếu không được chôn, hồn họ phải lang thang mãi và sẽ không được đầu thai qua kiếp khác). Và sau hai mươi tháng, dòng suối đã rửa sạch trắng những bộ xương này. 

Nhà chức trách VNCH sau đó đã phổ biến danh sách nạn nhân bị cộng sản giết tại suối Đá Mài, 428 người đã được xác nhận. Việt cộng đã dùng lý do tiêu diệt các phần tử phản cách mạng. 428 nạn nhân được phân ra như sau: 25 phần trăm là quân đội VCNH – hai sĩ quan, một số hạ sĩ quan và binh sĩ, 25 phần trăm là học sinh và sinh viên, 50 phần trăm là công chức và viên chức quận hạt và thường dân. 

Nhóm mồ tập thể thứ tư – Phú Thứ gần biển muối, tìm ra vào tháng mười một năm 1969, gần làng đánh cá Lương Viện, mười lăm cây số về phía Đông của thành phố Huế, một nơi cũng hoang dã như suối Đá Mài. Quân đội VNCH trong tháng đó đã có chiến dịch truy lùng những cán bộ cộng sản nằm vùng. Làng Lương Viện, dân số 700, sống gần với quân đội VNCH gần hai mươi tháng trời, đã có đủ can đảm để nói lên sự thật mà họ đã giữ kín trước đó, rồi sau đó, đã dẫn QLVNCH đến những ngôi mộ chôn tập thể. Dựa trên những lơi tường thuật của dân làng Lương Viện, nhà chức trách đã ước lượng số nạn nhân tại Phú Thứ từ 300 cho đến khoảng 1,000 người. 

Tuy nhiên, việc kiểm kê tổng số nạn nhân vẫn chưa được đầy đủ. Nếu tổng kê của chức trách địa phương Huế gần đúng, trên 2,000 người vẫn còn mất tích. 

Sau cuộc chiến, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ước lượng tổng số nạn nhân ở Huế vào khoảng 7,600, như sau: 

Bị thương và tàn tật vì bom đạn: 1,900 
Thường dân bị chết vì bom đạn: 844 
Nhóm mồ tập thể thứ nhất ngay sau cuộc chiến: 1,173 
Nhóm mồ tập thể thứ nhì, luôn cả Gò Cát, tháng 3-7, năm 1969: 809 
Nhóm mồ tập thể thứ ba, suối Đá Mài (quận Nam Hòa, tháng 9, 1969: 428 
Nhóm mồ tập thể thứ tư, biển muối ở Phú Thứ, tháng 11, 1969: 300 
Ước lượng những mồ tìm rải rác chung quanh thành phố Huế: 200 
Số người vẫn còn mất tích: 1,946 
Tổng số nạn nhân của cộng sản ở Huế: 7,600
Chú thích của tác giả - tài liệu trên đây lấy từ: 

[1] SEATO: South East Asia Organization. 

[2] PAVN: People's Army of Vietnam, soldiers of North Vietnam Army serving in the South, number currently 105,000. 

[3] PLAF: People's Liberation Armed Force, Formerly called the National Liberation Front Army. 

CỘNG SẢN CHẠY TỘI 

Những cuộc thảm sát ở Huế đã vượt quá những việc tàn ác CSVN đã ra tay trước đó ở miền Nam Việt Nam. Điều khác biệt là ở số nạn nhân lần này, chứ không phải ở mức độ tàn ác của việc họ làm. Đặc điểm của những vụ tàn sát ở Huế, sau khi chúng ta nghiên cứu những tài liệu tìm thấy, cho ta nhìn rõ được mức độ tàn ác của CSVN tại Huế, đã vượt xa những việc tàn ác ở những nơi khác trên miền Nam Việt Nam, cho dù có thường xuyên hoặc tàn bạo đến mức nào đi nữa. 

Vụ thảm sát ở Huế không phải là một việc làm để nâng cao tinh thần tranh đấu – cách đánh cấp tốc vào thẳng yếu điểm của phía bên kia để chứng minh sức mạnh của phe mình, mà lại khác hơn ở chỗ xuống tay sát hại dân lành trong vùng do du kích của CSVN kiểm soát. 

Không phải một chiến dịch đe dọa để quảng bá lý thuyết cộng sản. Không nhắm vào mục đích lay chuyển lý tưởng của phe đối nghịch, vì đa số những nạn nhân đều bị giết một cách âm thầm. Và cũng không phải để thủ tiêu những phần tử đối nghịch theo danh sách đã được soạn trước. Huế đã là ngoại lệ so với những chiến dịch của cộng sản nhằm lay chuyển hoặc đánh dò đường phản ứng của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa. Nếu nghiên cứu cẩn thận hơn, đây đó cũng có vài lý do, dữ kiện để giải thích một góc cạnh nào đó, nhưng tất cả vẫn không đủ để giải thích được những hình thức giết hại và sự lan rộng của những cuộc thảm sát ở Huế. 

Điều mà tác giả muốn nói ở đây là một giả thuyết, để giải thích những vấn đề liên quan đến những vụ thảm sát ở Huế, dưới hình thức sát nhân rất đơn giản và không có sự chọn lựa. 

Trước khi vào vấn đề, chúng ta nên để ý đến “ba sự thật” quan trọng. Có hai điều chính yếu mà khách du lịch nào đến Huế để tìm sự thật về thảm sát Tết Mậu Thân cũng đều tự hỏi: cái gì đã xảy ra? Và quan trọng hơn nữa là tại sao nó đã xảy ra? Cả hai câu hỏi này rất khó nhận thấy qua sự suy đoán đơn giản và thường đi ngược lại những lý luận của con người. Sau khi đã nói chuyện, thẩm vấn một số đông những cựu tỉnh trưởng, quận trưởng, cảnh sát địa phương lúc bấy giờ, cũng như những người đồng minh Hoa Kỳ có tham dự trận đánh tái chiếm Cổ Thành Nội, những nhân chứng, tù nhân đã được thả, những người cộng sản đã hồi chánh, và một số ít người quá may mắn, tuy đã bị bắt nhưng đã thoát chết, “ba sự thật” quan trọng này vẫn trổi lên trên hết: 

SỰ THẬT THỨ NHẤT: Và có thể sự thật quan trọng nhất, là tuy không thấy rõ bên ngoài, nhưng hầu như tất cả những vụ hành quyết đều xảy ra không phải vì lý do nóng nảy, bực tức, hay khủng hoảng khi cộng sản phải cuối cùng rút lui ra khỏi Huế. Nhiều lần, những lý do vừa đề cập đến đã được nêu lên, nhưng những lý do nầy quá yếu đi, không đủ để biện minh cho sự việc. Trái lại, nếu chúng ta xét lại từ đầu những vụ hành quyết đầu tiên khi Việt Cộng vừa chiếm được thành phố Huế, mình sẽ thấy rằng: gần như tất cả những vụ hành quyết này đều là kết quả của một quyết định và sự toan tính của đảng cộng sản Việt Nam. Nói đúng hơn nữa là những vụ hành quyết này rất cần thiết cho đảng cộng sản Việt Nam. 

SỰ THẬT THỨ NHÌ: Sau khi kiểm chứng với những dữ kiện đầy đủ, hầu như tất cả các vụ hành quyết đều do bàn tay của những đảng viên cộng sản nằm vùng, không phải ở quân chính quy Bắc Việt hoặc QLVNCH. Trên 12,000 binh sĩ QLVNCH đã chiến đấu để tái chiếm thành phố Huế, và có thể đã gây thiệt mạng một số thường dân vì lạc đạn. Đa số 150 tên cán bộ chính trị nằm vùng hoạt động ở tỉnh Thừa Thiên, những người này chính là thủ phạm đã ra lệnh thủ tiêu các nạn nhân ở Huế. Cho dù họ đã làm theo chỉ thị của bộ chỉ huy (và ban lãnh đạo trung ương CSVN), và nếu như thế thì những chỉ thị đó đã có lệnh như thế nào? Cho đến nay vẫn không ai biết rõ chi tiết. 

SỰ THẬT THỨ BA: Ngoài việc hành quyết những “cường hào ác bá”, cộng sản đã giết hại những nạn nhân còn lại một cách bí mật và đã không thèm dấu diếm tội ác của họ. Người ta bây giờ thường nghĩ đến Huế như một pháp trường để hành quyết tội nhân, với những mồ chôn tập thể lớn. Nhưng trong những ngày đầu tiên Huế bị chiếm đóng, chỉ có một số ít hành quyết được bộ đội và cộng sản nằm vùng loan báo để đồng bào đến xem. Những mồ chôn trong thành phố Huế tương đối dễ tìm thấy, vì để chôn người nơi đông đảo rất khó dấu được những xoi bói tò mò của người xung quanh. Tất cả những mộ tập thể còn lại đều được dấu kỹ, đa số ở vùng rừng núi hoang dã, không người qua lại, chắc đây là lý do chính khiến cho những nơi này đã được chọn lựa. 

Một thân xác chôn vùi trong đồi cát rất khó tìm, cũng như đi tìm một vỏ sò chôn sâu trong cát trên bờ biển với sóng biển xóa đi những dấu tích trên chỗ chôn. Suối Đá Mài là một trong những nơi hẻo lánh nhất của Huế, và chắc hẳn đã làm cho cộng sản rất tốn công khi đưa các nạn nhân đến đó để giết. Khi đến những nơi này, người quan sát sẽ nhận thấy rất rõ chủ ý của Việt cộng đã có nỗ lực che đậy tội ác của họ. 

Giả thuyết mà tôi (tác giả DOUGLAS PIKE) nêu lên ở đây là dự định của cộng sản VN khi đang chiếm giữ thành phố Huế, và những vụ hành quyết họ đã thi hành. Từ những chứng tích để lại, chúng ta có thể thấy được rằng, họ đã không nghĩ đến tương lai của họ ở thành phố Huế, mà chỉ thi hành những mệnh lệnh của cấp trên theo nhu cầu cần thiết, và với tình hình thay đổi lúc bấy giờ.
Một điều quan trọng khác nữa là đã không có một dấu hiệu nào để lại, đủ để chứng minh rằng, một lệnh hành quyết chính thức được phát ra từ Việt cộng; Thay vào đó, những quyết định giết để bịt miệng nhân chứng thường xảy ra theo diễn tiến của cuộc chiến. Sự liên hệ giữa hai điều vừa nêu ra rất rõ và được chia ra vào ba phần. 

Giả thuyết ở đây là Việt cộng đã phải thay đổi chiến thuật trong suốt 26 ngày tấn chiếm Huế, và cũng từ đó mà “lệnh hành quyết” cũng thay đổi để thích ứng với nhu cầu và chiến lược. Kết luận này tôi đã có sau khi sưu tầm những tài liệu của đảng cộng sản Việt Nam, phỏng vấn người tù số 1 và hồi chánh, tường thuật của những nhân chứng còn sống sót, những tài liệu tịch thu được bởi QLVNCH trên chiến trường, và những đường lối nội bộ của đảng cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ. 

Chiến lược của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (Communist Party of South Vietnam - PRP) cho Phần 1 chiến dịch Đông Xuân đã được nói ra rất rõ trong quân lệnh phát hành trong đêm ba mươi trước ngày tổng tấn công: “…phải nhất quyết phối hợp các thành phần VC trong thành phố sau khi chiếm được thành phố. Cấp tố trang bị vũ khí cho các cán bộ chính trị cũng như dân sự, thành lập ủy ban quản trị từ tỉnh xuống đến quận hạt, phường khóm, thành lập các toán dân sự chiến đấu và các cơ cấu để yểm trợ quân đội khi chiến đấu, dùng dân để thành lập tuyến phòng không, và nâng cao tinh thần đấu tranh của mọi giới cấp để phòng thủ khi ngụy quân phản công...” 

Đây là những dự tính và đã xảy ra như vậy lúc ban đầu. Tuy nhiên, những ngày sau đó, những biến chuyển tình thế đã được thuật lại với chi tiết khác nhau. Đài Hà Nội, ngày mồng bốn tháng Hai đã nói: “Sau một giờ tấn công, Quân Đội Nhân Dân đã chiếm được biệt thự của Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, nhà tù và tất cả các văn phòng cơ cấu của chánh phủ ngụy... Quân Đội Nhân Dân đã trừng trị đích đáng những tên tay sai ác độc của quân ngụy và kiểm soát chặt chẽ các đường phố, bắt giữ những tên phản động, phản cách mạng, và đánh sập đổ chánh phủ ngụy hà hiếp nhân dân...”
Trong thời gian ngắn ngủi chiếm đóng thành phố Huế, những cán bộ chính trị cộng sản, tháp tùng bởi các toán hành quyết, đi bắt và giết sạch các yếu nhân của tỉnh Thừa Thiên để chánh phủ VNCH sẽ bị yếu đi sau khi Việt Cộng rút lui ra khỏi thành phố. Đây là giai đoạn “hành quyết theo sổ đen”. Tòa án nhân dân được dựng lên, buộc tội, và hành quyết một cách chớp nhoáng. Những tên cán bộ xuất hiện, tay cầm danh sách và địa chỉ của các nạn nhân, ra tay thủ tiêu các thành phần mà chúng gọi là “phản cách mạng”. 

Những phiên tòa này thường được diễn ra ở những nơi công cộng, hoặc trong vườn rộng dùng làm bộ chỉ huy dã chiến của việt cộng. Phiên xử thường chỉ cần 10 phút để VC tuyên truyền, đọc cáo trạng, và buộc tội. Không có một bị can nào được trắng án. Hình phạt luôn luôn là “tử hình”, và thường các bị can đã bị xử bắn ngay tại chỗ. Xác của họ được chôn gấp rút, hay trả lại cho gia đình nếu xin. Những người bị bắt xử theo lối này, nhiều nhất là các công an, cảnh sát của thành phố, nhất là các ban an ninh, mật vụ, quân nhân và binh sĩ, và những người không phải là cảnh sát hay quân đội, nhưng là những vị lãnh đạo của các đảng phái, cộng đồng, giáo sư và các tôn giáo. 

Ngoài sự tấn công ác độc nhắm vào thành phần “trí thức” ở Huế, Phần 1 của chiến dịch Đông Xuân đi theo đúng phương thức hoạt động của đảng cộng sản Việt Nam. Hủy diệt thành phần trí thức đã liên tục xảy ra trong các làng xã trong suốt 10 năm trước đó. Sổ đen và địa điểm hoạt động đã được chọn lựa kỹ càng trước, Việt cộng chỉ chờ cơ hội để thi hành những dự tính này mà thôi. 

Tuy nhiên, không phải mọi người trong “sổ đen” ở Huế đã bị sát hại. Rất nhiều người trong sổ đen đã chạy trốn vào vùng thôn dã và đã thoát chết. Suốt cuộc chiến 24 ngày liền, trong những ngày đầu, cán bộ cộng sản rất bận rộn truy lùng tìm bắt tất cả mọi người trong sổ đen, nhưng sau đó, họ đã chuyển mọi nỗ lực vào các công tác mới khi đã không bắt được hết tất cả. 

HUẾ: GIAI ĐOẠN HAI 

Trong những ngày đầu, cuộc tấn công Tết Mậu Thân ở Huế đã thành công khá dễ dàng (nhưng ở miền Nam thì lại khác, Ủy Ban Đảng Cộng Sản Trung Ương đã nhận những bản báo cáo về kết quả không được mỹ mãn cho lắm từ vùng đồng bằng sông Cửu Long) nên trong say mê chiến thắng, Việt Cộng tưởng họ có thể giữ được thành phố Huế lâu dài. Có thể, các đảng viên cao cấp đã không dám nghĩ đến quyết định tử thủ dài hạn ở Huế, nhưng đối với cấp cán bộ tại làng xã thì họ đã vững tin như thế. Một thông tin mật của cộng sản bị VNCH bắt nghe được trong ngày Mồng Hai tháng Hai, kêu gọi các cán bộ ở mọi hạ tầng cơ sở phải quyết tâm tử thủ Huế, đã tuyên bố như sau: 

“Một giai đoạn mới trong lịch sử, một cuộc cách mạng đã bắt đầu (vì chiến thắng ở Huế) và chúng ta chỉ cần đánh nhanh đánh mạnh (ở Huế) để kết thúc cuộc giải phóng trong thắng lợi vinh quang.” 

Tờ báo chính thức của đảng cộng sản, Nhân Dân, cũng đã tuyên bố như thế: 

“Như một tia sét, đảng và nhân dân đã tổng tấn công đế quốc Mỹ và các tay sai đế quốc Mỹ... Guồng máy Ngụy đã bị tiêu hủy. Những bộ phận cơ cấu của Mỹ-Ngụy đã bị cách mạng đánh tan rã. Chính phủ Thiệu-Kỳ sẽ hoàn toàn sụp đổ. Quân tay sai đế quốc Mỹ đã trở thành yếu hèn và sẽ không thể tránh khỏi bị tiêu diệt bởi các chiến sĩ cách mạng.” 

Đương nhiên, những tin tức này luôn luôn để tuyên truyền và mê hoặc quần chúng, thường các tin tức loan tải bởi cơ quan truyền thông của đảng cộng sản là như thế. Muốn biết được những điều này là sự thật hay chỉ là ước nguyện của đảng cộng sản thì thật rất khó phân biệt. Nhưng từ những cuộc phỏng vấn các tù binh và hồi chánh viên, cũng như bắt được làn sóng để nghe lén những mật tin của cộng sản, các cán bộ cao cấp cũng như lính cộng sản đều đã tin rằng, họ sẽ chiếm giữ thành phố Huế mãi mãi, và họ đã cố gắng làm như vậy. 

Giữa những việc họ làm là tiếp tục thanh trừng những phần tử phản động còn lại và bắt đầu xây dựng lại hạ tầng cơ sở mới cho đảng và do đảng. Chỉ thị mới được ban hành, từ ủy ban chính trị trong thành phố, cho các cán bộ Việt cộng đi truy lùng và bắt những phần tử “chống cách mạng”, có nghĩa là, bất cứ những cá nhân hoặc tổ chức nào có khả năng và nhân lực để đi ngược lại đường lối của đảng trong tương lai. Chỉ thị này rất mơ hồ, và đã không dựa lên phương pháp “sổ đen” nữa, mà ủy thác toàn quyền quyết định đến người thi hành chỉ thị. Lần này, mục tiêu không còn là vài nhóm người nữa, mà là “tổ chức hoặc giai cấp trong xã hội.” 

Như đã thấy trước đây ở ngoài Bắc Việt hoặc ở Trung Cộng, đảng cộng sản lúc nào cũng san bằng những giai cấp trong xã hội, tiêu diệt những người trí thức, lãnh tụ các đảng phái chính trị, các vị lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo (các cao tăng Phật Giáo, các Linh Mục Công Giáo), các đảng phái, các tổ chức xã hội (đàn bà, tuổi trẻ, hướng đạo), ngay cả những sinh viên thân cộng trước đây nhưng vì gia đình khá giả thuộc loại tư bản. 

Cũng như thế, đôi khi cả gia đình đều bị sát hại dưới bàn tay cộng sản. Trong một trường hợp khá nổi tiếng do nhiều nhân chứng thuật lại như sau: 

Một toán cán bộ ám sát đã xông vào một căn nhà của một người có địa vị trong thành phố Huế, bắn ông ta, vợ ông ta, con trai và con dâu, con gái còn nhỏ, hai người đầy tớ và đứa bé con của họ! Ngay cả con mèo cũng bị bóp cổ cho chết, con chó thì bị đập vỡ sọ, những con cá vàng trong chậu cũng bị đổ ra sàn nhà giãy giụa chết. Sau khi những tên cán bộ bỏ đi, trong nhà không còn một ai sống sót. Một “cơ cấu xấu của xã hội” đã bị tiêu diệt!!! 

Giai đoạn 2 cũng gồm có những hoạt động nhắm vào những giai cấp trí thức, giai cấp mà có lẽ có rất nhiều ở Huế hơn những vùng khác ở Việt Nam. Những học giả còn sống sót ở Huế đã giải thích việc này như một mối thù truyền kiếp của cộng sản đối với giới trí thức của Huế, mà đại đa số là những người tuyệt đối chống cộng, đã không màng đến CSVN. 

Những học giả ở Huế xem thường chủ nghĩa cộng sản như một ý thức “đến sau”, sau những chủ thuyết khác, và đã xem nhẹ vấn đề cộng sản. Cố Đô Huế, một thủ đô cổ kính, với rất nhiều giới trí thức thấm nhuần đạo lý Khổng Tử, cộng thêm những giáo thuyết nhà Phật, đã không chú ý đến chủ nghĩa cộng sản kể từ những năm đầu trong thập kỷ 1920, 1930. 

Huế không màng biết tới cộng sản là gì? Thí dụ điển hình là trong Viện Đại Học Huế, một lớp học về các chủ thuyết chính trị trên thế giới, thời gian học là một năm, nhưng chỉ dành vỏn vẹn có nửa giờ để nói sơ sài về chủ thuyết Marxism-Leninism, lại nói rõ rằng ý thức cộng sản không có gì mà chỉ là một ý thức nông cạn, mọi rợ và đã không có chiều sâu, cũng như đã không được trắc nghiệm như những chủ thuyết khác như Khổng Tử hoặc Đạo giáo, với những bí kiếp nhiệm mầu, tư tưởng cao siêu, và đã đi sâu với nhân tánh như đạo Phật. 

Vì thế nên những người cộng sản gốc Huế, khi đã thấm nhuần và mù quáng bởi chủ nghĩa cộng sản, đã trở thành những kẻ vô tri, vô hồn khi bị hất hủi bởi những giới trí thức khác hay tôn giáo ở Huế. Hoặc tệ hơn nữa, thay vì bị hất hủi, họ đã bị loại hẳn ra khỏi giới trí thức Huế. Vì thế, với sự trung thành và tin tưởng tuyệt đối vào chủ thuyết cộng sản, họ đã tìm cách trả thù và san bằng những sự khác biệt này. Những người trí thức còn sống sót đã phải trả một giá rất đắt cho bài học này, từ đó họ đã chú ý đến và e sợ cộng sản hơn, nếu không là một chủ thuyết chính đáng, ít nhất cũng phải là một nhóm cuồng tín vô thần rất nguy hiểm! 

Trong giai đoạn 2, có lẽ khoảng 2,000 người đã bị cộng sản giết hại. Nhưng đó vẫn chưa phải là giai đoạn sát hại khủng khiếp nhất. 

HUẾ: GIAI ĐOẠN BA 

Cuối cùng rồi, cũng như Trung Ương Cộng Sản ở Hà Nội đã biết trước (vì đã hiểu rõ thế và sức mạnh của QLVNCH và đồng minh), con cờ đã xoay chuyển trong cuộc chiến ở Huế. Một bản mật tin truyền đi từ Thành Nội (bị QLVNCH nghe được) bởi đám tàn quân Việt Cộng ngày 22 tháng Hai, xin ban tham mưu hành quân cho phép được rút quân. Bản trả lời như sau từ bộ chỉ huy: không cho phép rút quân, ngày hôm sau, 23 tháng Hai, phải tấn công nữa. Trận tấn công ngày 23 đã xảy ra, nhưng rất yếu ớt, không gây thiệt hại gì cho bên VNCH và đồng minh. Vào ngày 24 tháng Hai, Thành Nội được giải tỏa khi VC bị đánh bại. 

Từ tuần trước đó, Cộng Sản Việt Nam đã thấy rõ sự thất bại sẽ phải đến. Khi đó, giai đoạn 3 mới bắt đầu: giai đoạn thủ tiêu nhân chứng và tang chứng. Có thể trong suốt giai đoạn 2, hầu hết tất cả những việt cộng nằm vùng ở Huế đã bị lộ mặt nạ. Ngay cả những cán bộ nằm vùng trước đó, dù đã không bao giờ bị nghi ngờ là VC, nay cũng đã ra mặt (vì tin tưởng rằng Huế đã và sẽ mãi mãi thuộc vào tay cộng sản). Chuyện thường tình như một dân Huế kể lại sự ngạc nhiên của ông khi biết được người hàng xóm bên nhà là một cán bộ nằm vùng cao cấp trong hàng ngũ MTGPMN (hắn là một cán bộ cao cấp trong thành phố Huế): “Tôi biết ông ta 18 năm nay, mà không bao giờ nghĩ đến ông ta có thể hoạt động chính trị như vậy.” Những người cán bộ này nằm vùng rất lâu, và chỉ lộ diện mỗi khi không có ai hay biết để giữ kín tông tích của mình. 

Vì thế, giai đoạn 3 khởi đầu để “bịt miệng nhân chứng”. Có thể giai đoạn này, số nạn nhân lên cao nhất ở Huế, cũng vì lý do này. Những người trước đó bị bắt đi học tập với ý định ban đầu là sẽ thả họ về. Nhưng vì là dân làng, cũng như những tên cán bộ nằm vùng đã bắt họ; tên tuổi và mặt mũi của những cán bộ này giờ đã lộ. Vì thế, họ đã phải chết, không phải vì là một con nợ hay gánh nặng, nhưng vì họ sẽ trở thành những người tố cáo những tên nằm vùng. Ví dụ rõ ràng nhất là nhóm người bị bắt đi từ nhà thờ Phủ Cam. Hay trường hợp của 15 em học sinh trung học bị chôn ở Phú Thứ trong các gò muối biển. 

Việc tìm những tài liệu lịch sử để đi đến một kết luận cho lý do tại sao, dựa trên một vài giả thuyết, đương nhiên sẽ có chỗ đúng chỗ sai, và chỉ vẽ lại một hình ảnh khá sơ sài cho độc giả. Sự việc xảy ra ở đời thường không đơn giản như bài viết. Ví dụ như, cho dù trong suốt thời gian những vụ hành quyết dựa vào “sổ đen” đang xảy ra, đương nhiên cũng có những chuyện trả thù theo “đường lối công bằng của cách mạng”. Và chắc chắn cũng có những vụ trả thù riêng tư giữa những cán bộ với người họ ghét bỏ! 

Quan điểm chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam về thảm sát ở Huế được nói rõ ra trong một cuốn sách nhỏ phát hành ở Hà Nội: 

“Liên kết và phối hợp với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và nhân dân, những toán nhân dân võ trang và cán bộ võ trang thành phố Huế đã bắt giữ và kêu gọi những tay sai đế quốc, sĩ quan VNCH và binh lính của quân ngụy ra đầu hàng. Những tên ngoan cố đã được trừng trị đích đáng.” 

Ở Hòa Đàm Paris, Cộng Sản Việt Nam đã công bố việc thảm sát này không phải do bàn tay của đảng Cộng Sản, mà chính là hành động của những cán bộ ở Huế bất mãn với chế độ. Tưởng cũng nên nhắc lại: vào ngày 26 tháng Tư năm 1968, Đài Giải Phóng Hà Nội đã chê trách việc chính phủ VNCH cố tìm xác của các nạn nhân, đài đã phát thanh rằng những người bị giết hại chỉ là “những tên tay sai đã nhúng tay vào máu của nhân dân yêu nước ở Huế và họ đã bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa giết hại vào tháng Ba tháng Tư.”. 

Những lời tuyên truyền này sau đó đã được thay thế bởi một lý do khác là “thảm sát ở Huế chỉ là những vụ thanh toán tranh chấp giữa các đảng phái ở Huế mà thôi.” 

trích từ "Viet Cong Strategy of Terror” trang 23 đến trang 29 

Ngô Xuân Hùng 
Thung Lũng Hoa Vàng ( San Jose California )
Ngày 15 tháng Tám, năm 2002. 
(Thứ nam của Cố Đại Tá Ngô Thế Linh, 
Phó Giám Đốc Nha Kỹ Thuật, Bộ Tổng Tham Mưu, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa) 

Xin ghi nhận và chân thành cảm tạ cố Giáo Sư Douglas Eugene Pike, trường Đại Học Texas Tech, Texas, U.S.A
http://www.trinhanmedia.com/2013/01/xuan-ve-hay-nho-en-nhung-oan-hon-tren.html

                       ===================(+)================

3) BS .Trần Văn Tích – Truy tố tội ác Việt cộng theo luật pháp Đức

Posted on January 19, 2013 by danlamthan
   
  Truy tố tội ác Việt cộng theo luật pháp Đức

*Phần tóm tắt và nhấn mạnh


- Chỉ có biện pháp truy tố tội ác diệt chủng của Việt cộng trong vụ thảm sát Mậu thân Huế năm 1968 là có cơ may được công pháp quốc tế chấp nhận tố quyền. Như vậy, Thiếu tá Liên Thành đã dùng đúng biện pháp. Vậy mong những ai tán thành ý nguyện truy tố tội ác của giặc thì nếu không ủng hộ cũng đừng đánh phá; nhất là đừng nhìn lệch sang lĩnh vực chống tôn giáo.

*Phần thân bài

 
Tôi rất ngưỡng mộ những người như ông Đỗ Ngọc Uyển đã bỏ bao nhiêu công sức và thời giờ nhằm liệt kê các tội ác mà cộng sản từng phạm theo công pháp quốc tế. Tôi cũng hết sức khâm phục các nhân vật đầy tâm huyết thường xuyên kêu gọi trên internet là quốc ngoại cần dồn mọi nỗ lực nhằm tiếp tay đồng bào quốc nội vùng lên lật đổ bạo quyền Việt cộng.

Tuy nhiên nếu chỉ liệt kê một cách chi tiết các loại tội ác chống nhân loại, tội ác chiến tranh, tội ác diệt chủng v.v..(mà Việt cộng từng phạm) thì công trình liên hệ chỉ có giá trị hàn lâm hoàn toàn lý thuyết. Ai cũng rõ Việt cộng phạm không biết cơ man nào là tội, kể cả những tội không được công pháp liệt kê và bên cạnh war crimes, chúng còn phạm vô số peace crimes, như tước đoạt gia sản của dân chúng, như đổi tiền theo kiểu cướp cạn v.v..
 

Về phía những lời kêu gọi cần dồn tất cả nỗ lực yểm trợ quốc nội thì cung cách hành động này lại mang tính chất gần như trang sức, xa hoa : người Việt tỵ nạn trên khắp thế giới có bao giờ ngưng hướng về quê hương để tiếp tay các phong trào, tổ chức, cá nhân chống đối độc tài đảng trị?
Tóm lại, theo tôi, không nên nói suông mà phải cố làm thiệt. Nói suông dầu sao cũng dễ, làm thiệt mới khó quá chừng.
 

Cho nên ngay từ những ngày đầu tiên khi Thiếu tá Liên Thành tung ra chiến dịch truy tố tội ác cộng sản Việt Nam trong vụ thảm sát Mậu thân Huế, tôi đã lên tiếng ủng hộ; mặc cho lời ong tiếng ve, thây kệ những lời chỉ trích. Lý do rất đơn giản : Thiếu tá Liên Thành đã hành động, đã làm chứ không phải chỉ hô hào, chỉ nói. Nhưng song song với việc làm của Thiếu tá Liên Thành, tự thân tôi cũng chủ động hết sức thử tìm hiểu xem tôi có thể làm được gì cụ thể nhằm tham gia vào phong trào tố cáo tội ác cộng sản trong khuôn khổ công lý nhân loại. Và bởi đang ở Đức nên tôi tìm hiểu luật pháp Đức, tôi hỏi han chuyên viên Đức; nhất là vì nước Đức cũng từng qua phân quốc-cộng như Việt Nam.
 

Thoạt tiên, tôi trình bày trường hợp chính cá nhân tôi bị giam giữ, hành hạ, đày ải, khủng bố khoảng ba năm trong các trại tù cộng sản sau ngày mất Miền Nam mà không hề được xét xử. Tôi hỏi chuyên gia luật học Đức-Thụy sĩ xem như vậy tôi có thể là nguyên đơn có tố quyền đối với bị cáo là Việt cộng hay không. Tôi chỉ đặt vấn đề về nguyên tắc và tôi chỉ nhắm vào các toà án cấp quốc gia ở Cộng hoà Liên bang Đức. Qua tiếp xúc với nhiều cá nhân và tổ chức, tôi đến được với một cơ quan có khả năng cung cấp cho tôi những dữ kiện giá trị và cụ thể là European Center for Constitutional and Human Rights có trụ sở tại Berlin. Tôi không nghĩ rằng đơn khởi tố của cá nhân tôi thuộc thẩm quyền tố tụng của các toà án quốc tế như Toà án La Haye hay liên quốc như International Court of Justice (ICJ), các International Crime Tribunals dành cho xứ Nam Tư cũ, xứ Ruanda, xứ Sierra Leone, xứ Liban và cả xứ Cao Miên. Ngay đối với Toà án Quốc tế xử Pon Pot và đồng bọn thì Liên Hiệp Quốc cũng chỉ thiết lập được với sự chấp thuận và cộng tác của chính phủ Cao Miên đương nhiệm. Tôi muốn biết bộ luật ứng dụng universal principle, loi de compétence universelle, Weltrechtsprinzip có cơ may nào được áp dụng cho bản thân tôi không. Bộ luật vận dụng Weltrechtsprinzip có tên là Völkerstrafgesetzbuch (VStGB) trong hồ sơ tư pháp Đức. Nó được Quốc hội CHLB Đức biểu quyết ngày 26.06.2002 và có hiệu lực kể từ ngày 30.06.2002. Nó nhằm vào các tội trạng diệt chủng, tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh (genocide, crimes against humanity, war crimes). Công dân bất cứ nước nào cũng có tố quyền, không bắt buộc phải là công dân Đức. Tội ác xảy ra tại bất cứ quốc gia nào cũng có thể bị truy tố. Trong thực tế, pháp đình Đức quốc đang vận dụng Weltrechtsprinzip để truy tố ba công dân xứ Ruanda tại hai toà án Stuttgart và Frankfurt vì tội tàn sát một lúc khoảng một ngàn thường dân trong một ngôi thánh đường ở Murambi ngày 11.04.1994. Viện dẫn hai trường hợp này, tôi yêu cầu giới chuyên gia luật học Đức giải thích tôi có thể vận dụng tố quyền để truy tố tội ác Việt cộng trước nền công lý Nhật Nhĩ Man hay không, khi mà cộng sản đã giam giữ, đày đoạ, khủng bố tôi trong ba năm mà không hề xét xử. Câu trả lời là không vì hình thức tội ác mà tôi là nạn nhân thuộc loại crimes against humanity (tội ác chống nhân loại) chứ không phải là genocide. Chỉ có tội ác genocide (diệt chủng) thì mới bị chi phối bởi luật pháp Đức và loại tội ác này không mất thời hiệu dù đã xảy ra cách năm 2012 này bao nhiêu lâu đi nữa. Cho nên những sát thủ người Ruanda mới phải ra toà tại Đức ở hai thành phố Stuttgart và Frankfurt. Hơn nữa tội ác do các đương sự phạm đã được cộng đồng quốc tế đồng loạt xếp loại genocide. Tuy nhiên luật pháp Đức cũng qui định rằng tố quyền chỉ chi phối các tội phạm hiện có mặt trên lãnh thổ Đức quốc. Như vậy, giả dụ như tôi có ý định nộp đơn cho Công tố viện Liên bang (Federal Prosecuting Attorney) tại Karlsruhe để xin được hưởng thẩm quyền tài phán của nền công lý Đức thì cũng sẽ không được cứu xét, bởi tôi không phải là nạn nhân của genocide, mà chỉ là nạn nhân của crimes against humanity.
 

Trong khi đó thì nếu tổ hợp luật sư N.Kate Kempton ở Toronto, Ontario, Canada được Thiếu tá Liên Thành ủy nhiệm nghiên cứu tiến trình truy tố tội ác Việt cộng nộp đơn khởi tố tại Công tố viện Liên bang Đức thì sẽ có cơ may được chấp đơn vì tội ác thảm sát đồng bào Huế dịp Tết Mậu Thân 1968 thuộc loại tội ác diệt chủng genocide. Đó là lý do tại sao tôi nghĩ rằng Thiếu tá Liên Thành đã đi đúng đường. Tất nhiên cá nhân tôi không rõ là tổ hợp luật sư Canada dự định sẽ nộp tố trạng tại pháp đình cấp quốc gia nào nhưng tôi biết là Canada cũng thừa nhận universal principle và đã đưa một công dân Ruanda ra toà ở Montréal. Ngoài ra, theo tìm hiểu của tôi thì Thiếu tá Liên Thành cũng có thể nộp tố trạng cho Công tố viện Vương quốc Bỉ theo đạo luật ban hành ngày 16.06.1993. Tổ hợp luật sư N.Kate Kempton đã thành công khi thay mặt nhóm Pháp luân công người Tàu truy tố các tay chóp bu Tàu cộng. Án lệnh đã được ban bố. Chính vì vậy nên Thiếu tá Liên Thành mới lựa chọn họ để thuê mướn lập hồ sơ truy tố tội ác Mậu thân. Đương nhiên luật lệ vốn do con người soạn thảo, ban hành, áp dụng và giải thích. Trong trường hợp có một Viện Công tố – không phải toà án – cấp quốc gia thừa nhận tố quyền tư pháp do tố tụng đại lý nhân là tổ hợp luật sư Canada đệ nạp thì một trong những thủ tục tố cầu quan trọng là bên nguyên phải chứng minh rằng thảm sát Mậu thân Huế 1968 là tội ác diệt chủng genocide theo công pháp quốc tế.
 

Nghĩ đến những cái chết thảm khốc, tức tưởi của hàng mấy ngàn nạn nhân tại Huế vào dịp Tết Mậu thân đến nay vẫn chưa được nền công lý nhân loại đọc cho một lời ai điếu trong khi lũ tội đồ sát thủ vẫn nhởn nha nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, có ai trong chúng ta không uất hận, không phẫn nộ? Chỉ cần một Viện công tố của một quốc gia tự do thượng tôn pháp luật chấp đơn tố giác tội ác bè lũ Việt cộng và tin này được phổ biến trên các phương tiện truyền thông báo chí là nỗi oan của những người đã khuất được giải phần nào, hương linh của những người bị bức tử được yên phần nào còn người Việt tỵ nạn thì xem như đã thành công vì công pháp quốc tế công nhận tập đoàn cộng sản Việt Nam là một lũ sát nhân tập thể.
 

Mới đây bỗng có một cá nhân đưa tin trên mạng là Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng nộp đơn truy tố tội ác cộng sản. Tin này như tự trên trời rơi xuống, nó xuất hiện đột ngột và chẳng kèm theo bằng chứng, tài liệu gì hết. Cá nhân tôi không thể tin loại tin này.
 

Lại mới có một nhóm đứng ra hô hào đông đảo đồng bào tham gia ký tên – có thể ẩn danh – vào một hồ sơ tập thể nhằm cùng mục đích. Cá nhân tôi chỉ biết chọn thái độ chờ xem.

*Phần kết luận và thỉnh cầu
 

Tôi vốn không hề được học về luật. Những điều tôi trình bày trong bài viết này chỉ là kết quả tự mình tìm tòi, góp nhặt, hỏi han. Tôi biết đến đâu xin giải bày đến đó.
Và căn cứ vào những hiểu biết hiện có trong tay, tôi kết luận là Thiếu tá Liên Thành đã hành động đứng đắn về phương diện pháp lý. Với những ai chưa ủng hộ vị cựu Trưởng ty Cảnh sát Quốc gia Thừa Thiên-Huế, tôi xin có một lời kính xin. Kính xin chư vị chỉ chú trọng vào khía cạnh tìm cách truy tố tội ác của kẻ thù, kính xin chư vị gạt qua một bên những khía cạnh khác, nhất là khia cạnh đụng chạm tới tôn giáo. Kính xin quí vị hãy vì những nạn nhân của Huế Mậu thân và chỉ vì những nạn nhân của Huế Mậu thân mà thôi.
 BS .Trần Văn Tích


http://vietlyhuong.net/2013/01/tet-nguyen-nho-toi-ac-diet-chung-cua.html#ixzz2ISmIDaqU


09/02/2013
0 Poster un commentaire

A découvrir aussi


Inscrivez-vous au blog

Soyez prévenu par email des prochaines mises à jour